Bản Tuyên ngôn của tinh thần và ý chí độc lập, tự do
78 năm sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, đặc biệt là sau 37 năm đất nước đổi mới và hội nhập quốc tế, mỗi người dân Việt Nam càng thấy thấm thía hơn hành trình đấu tranh vì độc lập, tự do; giá trị của độc lập, tự do mà mỗi người dân Việt Nam được thụ hưởng kể từ sau ngày 2/9/1945.
Bản Tuyên ngôn khai sinh Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập. Tuyên ngôn độc lập không chỉ khai sinh Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa dân tộc Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội mà còn có ý nghĩa thời đại sâu sắc. Bởi khát vọng, tinh thần và ý chí đấu tranh cho độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam; vì một nước Việt Nam thoát khỏi ách thống trị của ngoại bang dưới sự lãnh đạo của Đảng đã trở thành hiện thực sinh động.
Tuyên ngôn độc lập - bản “khai sinh” nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á - đã đưa tên đất nước Việt Nam trở lại bản đồ chính trị thế giới được Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo tại ngôi nhà của nhà tư sản dân tộc Trịnh Văn Bô (48 Hàng Ngang, Hà Nội) vào đêm 28/8/1945. Văn kiện lịch sử này không chỉ được Người trao đổi, lấy ý kiến đóng góp của các đồng chí trong Thường vụ Trung ương Đảng, các thành viên trong Chính phủ lâm thời, trong quần chúng nhân dân, mà còn được tham khảo ý kiến của A. Patti - đại diện cho quân Đồng minh.[1] Là văn bản pháp lý hiện đại, mang một giá trị đặc biệt, Tuyên ngôn độc lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết ngắn gọn và súc tích, bao gồm:
Một là, trong phần đầu tiên của Tuyên ngôn độc lập[2], Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn để luận về cơ sở đạo lý, pháp lý về quyền con người, quyền dân tộc của Tuyên ngôn độc lập năm 1776 (Hoa Kỳ) và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1791 (Pháp) và khẳng định đó là những đóng góp quan trọng vào sự phát triển tư tưởng của nhân loại về quyền con người, quyền dân tộc. Cụ thể, Người dẫn: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” và “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”, để từ đó khẳng định: “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Từ “những lẽ phải không ai chối cãi được” này, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người dân Việt Nam và dân tộc Việt Nam cũng đều có những quyền chính đáng ấy mà không ai có thể tước đoạt hay xâm phạm; đồng thời cũng khẳng định rằng vì những quyền không thể xâm phạm được đó mà nhân dân Việt Nam đã kiên cường, đoàn kết, kiên trì chiến đấu để giành lại từ tay kẻ thù.
Hai là, ở phần tiếp theo của Tuyên ngôn, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đanh thép tố cáo tội ác của thực dân Pháp và việc thực dân Pháp đã đầu hàng phát xít Nhật: “Hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa… Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng Minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó, dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật” và nhấn mạnh rằng “chẳng những chúng không “bảo hộ” được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã “bán” nước ta hai lần cho Nhật”, mà còn khẳng định, vì độc lập và tự do, nên khi “nước ta đã thành thuộc địa của Nhật chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng Minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”. Vì thế, “sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp”.
Ba là, Cũng trong Tuyên ngôn, trước công luận, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ khẳng định vai trò của Việt Minh trong cuộc đấu tranh chống quân Nhật, thực thi chính sách nhân đạo và “bảo hộ” người Pháp sau khi bị Nhật hất cẳng, mà còn nhấn mạnh rằng dân tộc Việt Nam kiên cường đấu tranh, gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít và đã giành lại độc lập, tự do từ tay phát xít Nhật. Đó chính là, “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa”. Cho nên, trong Tuyên ngôn này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố “thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xoá bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”; đồng thời nhấn mạnh, “các nước đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam”.
Lịch sử thế giới hiện đại chắc chắn không thể thiếu một sự kiện chính trị quan trọng, đó chính là, nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh thì “một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”. Đồng thời, lịch sử cũng ghi nhận, “nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” thì tất yếu phải “có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”.
Bốn là, phần phần cuối của Tuyên ngôn chính là lời tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh và toàn thể nhân dân Việt Nam với phát xít Nhật, thực dân Pháp (đang âm mưu quay trở lại xâm lược Việt Nam), quân Đồng minh và với thế giới rằng: “Toàn dân Việt Nam trên dưới một lòng kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp” và “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Lời thề vì độc lập, tự do của cả dân tộc trong bản Tuyên ngôn đó không chỉ là minh chứng, mà còn là một mốc son mở ra một thời đại mới - thời đại Hồ Chí Minh lịch sử và hành trình kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong lịch sử hào hùng của dân tộc. Đây cũng chính là sự đúc kết cô đọng nhất hành trình đấu tranh cho độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam ta; đồng thời, đưa những “thần dân” Việt Nam, những “nô lệ” An Nam trở thành chủ nhân của nước Việt Nam độc lập.